Di dân tự do là gì? Các công bố khoa học về Di dân tự do
Di dân tự do là quyền của một cá nhân di chuyển và cư trú trong một quốc gia mà không bị hạn chế hoặc bị truy cản bởi chính phủ hoặc các đặc khu quyền hạn. Nó b...
Di dân tự do là quyền của một cá nhân di chuyển và cư trú trong một quốc gia mà không bị hạn chế hoặc bị truy cản bởi chính phủ hoặc các đặc khu quyền hạn. Nó bao gồm quyền tự do di chuyển, quyền chọn nơi cư trú và quyền truy cập vào công dân và quyền tổ chức theo bất kỳ cách nhân đã phải chịu khi có thể định cư.
Di dân tự do bao gồm một số quyền và tự do cơ bản của người di dân, bao gồm:
1. Quyền tự do di chuyển: Người di dân tự do có quyền tự do đi lại trong nước và quốc tế, không bị hạn chế bởi chính phủ hay các tổ chức khác. Quyền này bao gồm quyền di chuyển, quyền rời bỏ đất nước, và quyền trở về nước mình.
2. Quyền chọn nơi cư trú: Người di dân tự do có quyền chọn nơi mình muốn sinh sống và định cư trong quốc gia mà mình muốn, mà không bị hạn chế bởi chính phủ hay các đặc khu quyền hạn. Điều này bao gồm quyền chọn nơi làm việc, chọn nơi ở và tận hưởng các quyền và lợi ích của công dân trong quốc gia đó.
3. Quyền truy cập vào công dân và quyền tổ chức: Người di dân tự do có quyền truy cập và tham gia vào các chương trình và dịch vụ công dân, bao gồm quyền tiếp cận vào chăm sóc y tế, giáo dục, lao động, và các quyền hạn khác của công dân. Họ cũng có quyền tổ chức và tham gia vào các cộng đồng và tổ chức nhân quyền trong quốc gia mà họ định cư.
Tuy nhiên, lưu ý rằng các quyền và tự do này không hoàn toàn không giới hạn và có thể bị hạn chế trong một số trường hợp. Chẳng hạn, một quốc gia có thể áp đặt các hạn chế về nhập cư hoặc quản lý di dân dựa trên lý do an ninh, kinh tế hoặc xã hội.
Các quyền và tự do của di dân tự do có thể được mô tả chi tiết như sau:
1. Quyền tự do di chuyển: Đây là quyền của một cá nhân di chuyển tự do trong một quốc gia, vượt qua các biên giới và không bị hạn chế bởi các quy định di dân hoặc visa. Người di dân tự do có quyền tự do lựa chọn phương tiện di chuyển, ví dụ như việc sử dụng các phương tiện công cộng, lái xe cá nhân hoặc đi bộ.
2. Quyền chọn nơi cư trú: Người di dân tự do có quyền tự do lựa chọn nơi cư trú trong quốc gia mà họ chọn, không bị hạn chế bởi các quy định hành chính, giới hạn địa lý hoặc đặc khu quyền hạn. Quyền này cho phép họ chọn nơi ở dựa trên sở thích cá nhân, hướng dẫn công việc, tiện ích công cộng và mục đích gia đình.
3. Quyền truy cập vào công dân và quyền tổ chức: Người di dân tự do có quyền truy cập vào các dịch vụ và tiện ích công cộng, bao gồm giáo dục, chăm sóc sức khỏe, công lý và phúc lợi xã hội, mà không bị phân biệt đối xử. Họ cũng có quyền tham gia vào các tổ chức xã hội, nhân quyền và chính trị trong quốc gia đang sinh sống.
4. Quyền bảo vệ pháp lý: Người di dân tự do có quyền nhận được bảo vệ pháp lý và quyền công dân trong quốc gia mà họ định cư. Điều này bao gồm quyền được truy cập vào hệ thống luật pháp, quyền tiếp cận các luật sư và quyền nhận được sự bảo vệ của luật pháp khi gặp phải tình huống khẩn cấp hoặc khi bị xâm phạm quyền lợi cá nhân.
5. Quyền công dân: Người di dân tự do (trừ trường hợp họ có quốc tịch) không thể được phân biệt đối xử và có quyền được coi là công dân trong quốc gia đang sinh sống. Điều này đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo các quyền và tự do cơ bản, bao gồm quyền bầu cử, quyền tham gia vào chính trị và quy định về quyền tài sản.
Quyền di dân tự do được bảo vệ bởi các công ước và hiến pháp quốc tế, chẳng hạn như Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên Hợp Quốc và Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân sự và Chính trị. Tuy nhiên, lưu ý rằng các quyền và tự do này không hoàn toàn không giới hạn và có thể bị hạn chế đối với an ninh quốc gia, sức khỏe công cộng hoặc lợi ích xã hội.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "di dân tự do":
Một phương trình mới và tương đối đơn giản cho đường cong áp suất chứa nước trong đất, θ(
Dữ liệu động học cho các gốc tự do H⋅ và ⋅OH trong dung dịch nước, và các anion gốc tự do tương ứng, ⋅O− và eaq−, đã được phân tích kỹ qua phương pháp xung bức, xung quang học và các phương pháp khác. Hằng số tốc độ cho hơn 3500 phản ứng đã được lập bảng, bao gồm phản ứng với phân tử, ion và các gốc tự do khác có nguồn gốc từ các chất tan vô cơ và hữu cơ.
Mức độ hormone trong huyết tương tự do và không gắn đặc hiệu thường phản ánh tình hình lâm sàng chính xác hơn so với mức tổng hormone huyết tương. Do đó, việc có các chỉ số đáng tin cậy của những phân đoạn này là rất quan trọng. Nồng độ testosterone (T) tự do biểu kiến thu được bằng phương pháp cân bằng dialy (AFTC) cũng như phân đoạn T huyết thanh không kết tủa bởi nồng độ amoni sulfat 50% (non-SHBG-T; SHBG: globulin gắn hormone sinh dục) thường được gọi là T khả dụng sinh học, nhưng không phù hợp cho lâm sàng thường quy do quá tốn thời gian. Một số thông số khác đã được sử dụng mà chưa được kiểm chứng hoàn toàn, chẳng hạn như miễn dịch hóa học T tự do trực tiếp với analog T được đánh dấu (aFT), tính toán T tự do (FT) từ tổng T và nồng độ SHBG miễn dịch hóa học (iSHBG), và chỉ số androgen tự do (FAI = tỉ lệ 100T/iSHBG). Trước những khác biệt lớn trong tài liệu liên quan đến mức T tự do hoặc T khả dụng sinh học, chúng tôi so sánh nồng độ AFTC, FT, aFT, FAI, và non-SHBG-T trong một số lượng lớn huyết thanh với khả năng SHBG thay đổi từ thấp, như ở phụ nữ nhiều lông, đến rất cao như trong cường giáp. Tất cả những chỉ số này của T khả dụng sinh học có tương quan đáng kể với nồng độ AFTC; giá trị AFTC và FT gần như giống nhau dưới mọi điều kiện nghiên cứu, trừ trong thời kỳ mang thai. Tuy nhiên, giá trị của aFT chỉ là một phần của AFTC hoặc FT, phân số thay đổi theo chức năng của mức SHBG. Tương tự, tỉ lệ FAI/AFTC thay đổi theo chức năng của mức SHBG, do đó, aFT và FAI không phải là chỉ số đáng tin cậy của T khả dụng sinh học.
Giá trị FT thu được bằng cách tính toán từ T và SHBG như được xác định bằng miễn dịch hóa học, dường như là một chỉ số nhanh, đơn giản và đáng tin cậy của T khả dụng sinh học, tương đương với AFTC và phù hợp cho lâm sàng thường quy, ngoại trừ trong thời kỳ mang thai. Trong thời gian mang thai, estradiol chiếm một phần đáng kể của các vị trí gắn SHBG, dẫn đến SHBG như được xác định bằng miễn dịch hóa học vượt quá khả năng gắn kết thực tế, điều này trong huyết thanh thai phụ làm cho giá trị FT tính toán thấp hơn AFTC. T không gắn đặc hiệu, tính toán từ FT, tương quan rất cao và gần như giống hệt với các giá trị của non-SHBG-T thu được bằng phương pháp kết tủa amoni sulfat, chứng thực về giá trị lâm sàng của FT tính toán từ iSHBG.
Chúng tôi đã phát triển một hàm điểm mới, gọi là điểm mô hình mẫu (TM‐score), để đánh giá chất lượng của các mẫu cấu trúc protein và các mô hình toàn đoạn được dự đoán bằng cách mở rộng các phương pháp đã sử dụng trong bài kiểm tra khoảng cách toàn cầu (GDT)
Các nghiên cứu về độ nhạy được tiến hành liên quan đến việc thu được thuộc tính quang học của aerosol từ các bức xạ được đo bởi các thiết bị đo bức xạ bầu trời mặt trời tại mặt đất của Mạng lưới Robot Aerosol (AERONET). Các nghiên cứu này tập trung vào việc thử nghiệm một khái niệm đảo ngược mới nhằm thu được đồng thời phân bố kích thước aerosol, chỉ số khúc xạ phức tạp và độ phản xạ đơn trong bức xạ từ các phép đo phổ của bức xạ trực tiếp và khuếch tán. Các biến động của quá trình đảo ngược do lỗi ngẫu nhiên, độ lệch của thiết bị và các không chắc chắn được biết đến trong mô hình bức xạ khí quyển được phân tích. Sự sai sót trong việc hiệu chuẩn kênh mặt trời hoặc bầu trời, góc phương vị không chính xác trong việc đo bức xạ bầu trời, và sự không chính xác trong việc tính toán độ phản xạ bề mặt được coi là nguồn lỗi. Các tác động của những lỗi này đến việc đặc trưng hóa ba loại aerosol điển hình và quang học riêng biệt với phân bố kích thước đa mô hình (aerosol hòa tan trong nước hấp thụ yếu, aerosol cháy sinh khối hấp thụ, và bụi sa mạc) được xem xét. Các hạt aerosol trong quá trình thu được được giả định là những hình cầu đồng nhất phân tán đa dạng với cùng một chỉ số khúc xạ phức tạp. Do đó, chúng tôi cũng đã kiểm tra cách mà việc đảo ngược với giả định như vậy làm lệch các kết quả thu được trong trường hợp các aerosol bụi không hình cầu và trong trường hợp các hạt hình cầu trộn lẫn bên ngoài hoặc bên trong với các chỉ số khúc xạ khác nhau. Phân tích cho thấy việc thu được thành công tất cả các đặc điểm của aerosol (phân bố kích thước, chỉ số khúc xạ phức tạp và độ phản xạ đơn), với điều kiện rằng quá trình đảo ngược bao gồm sự kết hợp dữ liệu của độ sâu quang học phổ cùng với bức xạ bầu trời trong toàn bộ mặt trời almucantar (với độ bao phủ góc của các góc tán xạ lên đến 100° hoặc hơn). Độ chính xác của kết quả thu được là chấp nhận được cho hầu hết các ứng dụng cảm biến từ xa ngay cả khi có sự hiện diện của những không chắc chắn hệ thống hoặc ngẫu nhiên khá mạnh trong các phép đo. Những hạn chế chính liên quan đến việc đặc trưng hóa các tình huống độ sâu quang học thấp đối với tất cả các loại aerosol, nơi mà có thể xảy ra các lỗi tương đối cao trong các phép đo bức xạ trực tiếp của độ sâu quang học aerosol. Ngoài ra, kết quả của các thử nghiệm cho thấy việc giảm độ bao phủ góc của sự tán xạ (các góc tán xạ 75° hoặc ít hơn) trong bức xạ bầu trời dẫn đến việc mất thông tin thực tế về chỉ số khúc xạ. Việc chỉ đúng góc phương vị là rất quan trọng đối với việc đặc trưng hóa bụi. Sự tán xạ bởi các hạt bụi không hình cầu yêu cầu phân tích đặc biệt, trong đó việc xấp xỉ aerosol bằng các hình cầu cho phép chúng tôi suy diễn độ phản xạ đơn bằng cách đảo ngược độ sâu quang học phổ cùng với bức xạ bầu trời trong toàn bộ mặt trời almucantar. Việc đảo ngược các bức xạ bầu trời được đo trong góc tán xạ 40° đầu tiên chỉ, nơi mà các hiệu ứng không hình cầu là không đáng kể, dẫn đến các thu được chính xác về phân bố kích thước aerosol của các hạt không hình cầu.
Liều ketamine dưới gây mê, một chất đối kháng thụ thể NMDA không cạnh tranh, làm suy giảm chức năng của vỏ não trước trán (PFC) ở chuột và gây ra các triệu chứng ở người tương tự như những gì quan sát được ở bệnh tâm thần phân liệt và trạng thái phân ly, bao gồm suy giảm hiệu suất trong các bài kiểm tra nhạy cảm với thùy trán. Nhiều bằng chứng cho thấy rằng ketamine có thể làm suy yếu chức năng PFC một phần là do tương tác với dẫn truyền thần kinh dopamine ở khu vực này. Nghiên cứu này nhằm xác định cơ chế mà ketamine có thể làm gián đoạn dẫn truyền thần kinh dopaminergic trong, và các chức năng nhận thức liên quan đến, PFC. Một nghiên cứu đáp ứng liều chi tiết sử dụng vi thẩm phân ở chuột tỉnh táo cho thấy rằng liều thấp của ketamine (10, 20 và 30 mg/kg) làm tăng dòng glutamate trong PFC, cho thấy rằng ở những liều này, ketamine có thể làm tăng dẫn truyền thần kinh glutamatergic trong PFC tại các thụ thể glutamate không phải NMDA. Một liều gây mê của ketamine (200 mg/kg) làm giảm, và một liều trung gian 50 mg/kg không ảnh hưởng đến, mức độ glutamate. Ketamine, ở liều 30 mg/kg, cũng làm tăng sự giải phóng dopamine trong PFC. Sự gia tăng này bị chặn bởi việc áp dụng vào PFC của chất đối kháng thụ thể AMPA/kainate, 6-cyano-7-nitroquinoxaline-2,3-dione CNQX. Hơn nữa, sự kích hoạt giải phóng dopamine do ketamine gây ra và sự suy giảm luân phiên không gian kéo dài ở loài gặm nhấm, một nhiệm vụ nhận thức nhạy cảm với PFC, đã được cải thiện bởi sự điều trị trước toàn thân với chất đối kháng thụ thể AMPA/kainate LY293558. Những phát hiện này cho thấy rằng ketamine có thể làm gián đoạn dẫn truyền thần kinh dopaminergic trong PFC cũng như các chức năng nhận thức liên quan đến khu vực này, một phần, thông qua việc tăng giải phóng glutamate, từ đó
Xác định hiệu quả và độ an toàn của việc điều trị bằng rituximab kết hợp với methotrexate (MTX) ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp (RA) hoạt động không đáp ứng đầy đủ với các liệu pháp kháng yếu tố hoại tử u (anti‐TNF) và khám phá dược động học cũng như dược lực học của rituximab ở đối tượng này.
Chúng tôi đã đánh giá hiệu quả và an toàn chính tại tuần thứ 24 ở những bệnh nhân tham gia vào thử nghiệm REFLEX (Randomized Evaluation of Long‐Term Efficacy of Rituximab in RA), một nghiên cứu pha III kéo dài 2 năm, đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, có kiểm soát giả dược về liệu pháp rituximab. Những bệnh nhân có RA hoạt động và không đáp ứng đầy đủ với 1 hoặc nhiều liệu pháp anti‐TNF đã được ngẫu nhiên hóa để nhận rituximab dạng tiêm tĩnh mạch (1 liệu trình, gồm 2 lần truyền 1.000 mg) hoặc giả dược, cả hai đều có nền MTX. Điểm cuối chính của hiệu quả là đáp ứng theo tiêu chí cải thiện 20% của Hiệp hội Thấp khớp Hoa Kỳ (ACR20) ở tuần 24. Các điểm cuối phụ là đáp ứng theo tiêu chí cải thiện ACR50 và ACR70, Điểm Hoạt động Bệnh trên 28 khớp, và tiêu chí đáp ứng của Liên minh Châu Âu chống Thấp khớp (EULAR) ở tuần 24. Các điểm cuối bổ sung bao gồm điểm trên Bảng đánh giá chức năng cho bệnh mãn tính-mệt mỏi (FACIT-F), Chỉ số Khuyết tật của Bảng đánh giá sức khỏe (HAQ DI), và Bảng câu hỏi 36 mục tóm tắt (SF-36), cũng như điểm phóng xạ được sửa đổi bởi Genant ở tuần 24.
Bệnh nhân được chỉ định giả dược (n = 209) và rituximab (n = 311) đều có RA hoạt động lâu dài. Ở tuần 24, số lượng bệnh nhân được điều trị rituximab chứng minh đáp ứng ACR20 nhiều hơn đáng kể (
Ở tuần 24, một liệu trình đơn lẻ rituximab kết hợp với liệu pháp MTX đồng thời đã mang lại những cải thiện đáng kể và có ý nghĩa lâm sàng trong hoạt động bệnh ở các bệnh nhân có RA hoạt động lâu dài mà không đáp ứng đầy đủ với 1 hoặc nhiều liệu pháp anti‐TNF.
Sự thỏa mãn các nhu cầu tâm lý cơ bản về tính tự định, năng lực và mối quan hệ, như được định nghĩa trong Thuyết Định hướng Tự chủ (Self‐Determination Theory), đã được xác định là một yếu tố dự báo quan trọng cho sự hoạt động tối ưu của cá nhân trong các lĩnh vực cuộc sống khác nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu sự thỏa mãn nhu cầu liên quan đến công việc dường như gặp trở ngại bởi thiếu một thước đo được chuẩn hóa. Nhằm hỗ trợ các nghiên cứu tương lai, nghiên cứu này đã đặt ra mục tiêu phát triển và xác thực Thang đo Sự hài lòng Nhu cầu Cơ bản liên quan đến Công việc (W‐BNS). Qua bốn mẫu nói tiếng Hà Lan, bằng chứng đã được tìm thấy cho cấu trúc ba yếu tố của thang đo, giá trị phân biệt và độ tin cậy của ba thang đo phụ thuộc sự thỏa mãn nhu cầu cũng như độ giá trị phù hợp và giá trị dự đoán của chúng. W‐BNS do đó có thể được coi là một công cụ hứa hẹn cho các nghiên cứu và thực hành trong tương lai.
Sự phát triển nhanh chóng của các công nghệ hữu cơ mới đã dẫn đến những ứng dụng quan trọng của thiết bị điện tử hữu cơ như đi-ốt phát sáng, pin năng lượng mặt trời và bóng bán dẫn hiệu ứng trường. Yêu cầu lớn hiện nay là chất dẫn điện có độ dẫn cao và tính trong suốt để có thể hoạt động như lớp chuyển tải điện tích hoặc kết nối điện trong các thiết bị hữu cơ. Poly(3,4-ethylenedioxythiophene): poly(styrenesulfonic acid) (PEDOT:PSS), được biết đến như là chất dẫn điện nổi bật nhất, đã đảm nhận vai trò này nhờ vào khả năng tạo màng tốt, tính trong suốt cao, độ dẫn điện điều chỉnh được và độ ổn định nhiệt tuyệt vời. Bài tổng quan này tóm tắt các phương pháp hóa học và vật lý thú vị có thể nâng cao hiệu quả độ dẫn điện của PEDOT:PSS một cách hiệu quả, đặc biệt tập trung vào cơ chế nâng cao độ dẫn cũng như ứng dụng của các màng PEDOT:PSS. Những triển vọng cho các nỗ lực nghiên cứu trong tương lai cũng được đề cập. Dự kiến rằng các màng PEDOT:PSS với độ dẫn cao và tính trong suốt có thể là trọng điểm cho những đột phá vật liệu điện tử hữu cơ trong tương lai.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10